Qua sông

Ðò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện.
Mưa lâu, trời mốc, buồn hôi xưa.
Con đường đáo nhậm xa như nhớ.
Chiều mập mờ xiêu lạc dáng cò.
Quán chật xanh lên rừng lính ướt,
Mặt bơ phờ dính gió bao la.
Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét,
Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa.
Vang lên những địa danh huyền hoặc,
Mỗi địa danh nồng một xót xa.
Giặc đánh lớn – mùa mưa đã tới.
Mùa mưa như một trận mưa liền.
Châu thổ mang mang trời nước sát.
Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên.
Tiếp tế khó – đôi lần phải lục
Trên người bạn gục đạn mươi viên.
Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên.
Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh.
Sông cái nước men bờ sóng sánh.
Cồn xa cây vướng sáng mơ màng.
Aùo quan phong quốc kỳ anh liệt,
Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang.
Quê xa không tiện đường đưa tiễn.
Nghĩa tận sơ sài, đám lạnh tanh.
Thêm một chút gì như hối hả,
Người thân chưa khóc ráo thâm tình.
Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền.
Xuống đò, đời đã bỏ quên...
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.

1964

© Tô Thùy Yên
从: Selected poems
录制: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Den Fluß überqueren

Das Boot verstopft von der Nachschubstruppe.
Der Regen zäh, der Himmel verschimmelt, traurig verfault.
Der Weg zur Dienstwierderaufnahme weit wie die Sehnsucht.
In der Dämmerung des Abends irrt der Schatten des fliegenden Storches vom Weg ab.
Das enge Lokal grün erhellt von waldfarbiger Kleidung durchnäßter Soldaten,
Ihr Gesicht vergeistigt von wehenden Spuren immensen Windes.
Die Feuchtigkeit vernebelte die Luft, es roch nach verbranntem Pulver.
Zufällige kleine Geschichten entfachten winzige Wärme für die Regenbäume.
Die mystischen Ortsnamen hallten laut von Mund zu Mund.
Jede Ortsname roch hitzig nach  Bitterkeit.
Die Feinde schlugen heftig – die Regenzeit kam.
Eine Regenzeit wie Regen ohne Ende.
Dorf und Land standen grenzenlos im Wasserschleier.
Die Seele schimmelt da, in welch unbenennbarer Einsamkeit!
Der Nachschub zögert – einige Male mußte ich durchsuchen
Auf dem gefallenen Leib des Freundes etwa zehn Patronen.
Die Evakuierung stockte – Würmer und Maden wimmelten
In den Wunden eines klaglosen Freundes.
Die Leichen der seit Tagen verstorbenen Soldaten wurden nicht weggeräumt.
Geschwollene Leiber, zerfetzte Gesichter, die Bächer rochen nach Blut.
Der Hauptfluß berührt das Ufer mit sanften Wogen.
In den Bäumen der fernen Insel Licht wie im Traum
Zur Beerdigung soll die Nationalflagge die Heldentat würdigen.
Für Tausende Herbste versank der Trauerzug im Wasser
Die Heimat lag so fern, daß niemand zum Abschienehmen kam.
Die letzte Ehre war einfach, die Trauerfeier kalt!
Mich überfiel etwas wie Eile.
Die Tränen für den Freund noch ungeweint.
Betroffen sah ich mich selbst
In jenes End-Reich taumeln, dunkel hallte der Klang im Nichts
Stieg ins  Boot, ließ das Leben zurück
Ein Fluß, strömendes Wasser in leuchtender Augen.

1964

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai