Kim Lan Thai 
Translator

on Lyrikline: 10 poems translated

from: vietnamščina to: nemščina

Original

Translation

Vẫn là

vietnamščina | Tô Thùy Yên

Vẫn là tiếng thinh lặng kinh hoàng
Ðâu đó quanh đây
Do một vật đã rơi buông từ chỗ rất cao
Còn để lại.

Vẫn là nỗi khuya khoắt đuối tuyệt
Ðâu đó quanh đây
Của những bước chân hồ nghi thất lạc
Về tự lãng quên xa.

Vẫn là cơn tức tưởi cầm nén
Ðâu đó quanh đây
Bục ra từ xương thịt tủi phận
Khốn quẩn tồn sinh.

Vẫn là niềm nhớ nhung oan khuất
Ðâu đó quanh đây
Về những khôn thiêng chưa hề hiển dạng
Ngày đêm chứng giám ta.

Vẫn là sự đeo đẳng rợn người
Ðâu đó quanh đây
Của những điệu ru hời vướng vất thiên cổ
Ðầm cây cỏ hôn mê.

1996

© Tô Thùy Yên
from: Selected poems
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Immer noch

nemščina

Immer noch die schweigende Stimme, die Bange einjagt
Irgendwo hier
Von einem Ding, das von da oben, sehr hoch, herunter fällt
Echo hinterlassend

Immer noch jene verzweifelte Nächtigkeit
Irgendwo hier
Von sich verlaufenden unsicheren Schritten
Aus langer Vergeßlichkeit zurückkehrend

Immer noch jenes unterdrückte Schluchzen
Irgendwo hier
Aus mitleidenden Knochen und Fleisch sich losreißend
In fortexistierender Not

Immer noch jene kränkende Sehnsucht
Irgendwo hier  
Nach noch nie erschienenem Heiligsein
Tag und Nacht als unsere Zeugen

Immer noch jene übelaufregende Verfolgung
Irgendwo hier
Von seit alters her hängenden überlieferten Wiegenliedern
Bäume und Gräser durchtränkend wie betäubt.

1996

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai

Trường sa hành

vietnamščina | Tô Thùy Yên

Toujours il y eut cette clameur,
                          Toujours il y eut cette fureur...

                          Saint-John Perse

Trường Sa! Trường Sa! Ðảo chuếnh choáng.
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Ðêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.

Mùa Ðông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.

Ðảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.

Bốn trăm hải lý nhớ không tới,
Ta khóc cười như tự bạo hành,

Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục,
Ðường thân thế lỡ, cố đi nhanh.

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ,
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.

Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Ðông lỡ mất, bãi Tây bồi.
Ðám cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?

Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng,
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.

Mặt trời chiều rã rưng rưng biển,
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo.
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.

Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp,
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.

Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ,
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.

Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya.
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thâm thê.

Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng.

Bãi lân tinh thức âm u sáng.
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.


Ðất liền, ta gọi, nghe ta không?
Ðập hoảng vô biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.

Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa.
Aùnh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên.

Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã,
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.

San hô mọc tủa thêm cành nhánh.
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai.
Thời gian kết đá mốc u tịch,
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.

1974

© Tô Thùy Yên
from: Selected poems
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Trường Sa Gesang

nemščina

Toujours il y eut cette clameur,
                                        Toujours il y eut cette fureur…

                                        Saint-John Perse

Trường Sa! Trường Sa! taumelnde Inseln,
Abgrundtiefe Traurigkeit umgibt vier Rictungen weiß,
Dem dutzend Wachsoldaten sind Wellen und Wasser noch fremd,
Nachts liegend denken sie, die Inseln fließen von ihnen  weg

Die Nordost- Jahreszeit, Wind weht unaufhörlich,
Zerreißt auch mir das Herz in kleine Fetzen.
Ich frage nach, Ach! IMMENSE EINSAMKEIT,
Aber IMMENSE EINSAMKEIT schaut weg.

Die Inseln, wild, leer auch an Seelen von Geistern und Teufeln,
Die Pflanzen der Urzeit fremd an Namen,
Bedecken Tag für Tag  tiefgrün kalt
Leib und Seele des Menschen im ewig erstarrten Dasein.

Vierhundert Meilen, die Sehnsucht unzureichend.
Ich weine und lache mir selbst Gewalt tuend,
Den Zorn unterdrückend, den Rücken gekrümmt in stummer Erduldung.
Den Schicksalsweg halb gegangen, versuche ich schnell zu gehen.

Die Wellen von altersher weinen, das Meer in Trauer.
Welche Beschränktheit schämt sich nicht über das winzige Dasein?
Bedaure, nicht genug Tränen zu haben.
Glaube indes, der Ozean heult dafür den Himmel weiß.

Die Sturmzeit dreht sich, der Wind tobt,
Das Ostufer nimmt ab, das Westliche zu.  
Die Bäume liegen entwurzelt, dem Zerreißen sich fügend.
Bereuen sie, geboren zu sein ohne Wahl der Räumlichkeit?

Im Wasser der Bucht zum Träumen - himmelbau
Treiben Seetang und Algen geschmeidig hin und her,
Wie die Stufen der Traurigkeit sich bewegen, immerfort,
Unter meiner Seele einsamstill glänzend.

Die Abendsonne zerbröckelt, rührt den Ozean zu Tränen.    
Die Rauchwolken der schwarzen Vögel kreisen vor Schreck kopflos.
Erde und Himmel bebend, als ob die Inseln im Feuer aufflammen.
Ich fühle, als sei der ganze Körper überall verbrannt.

Ich sitze neben dem wilden Feuer,
Lasse Haare und Bart trocknen auf die garende Beute wartend,
Höre die Kokosbäume bewußtlos im Wind rauschen immerfort    
Durch das ganze Dasein hindurch unendlich leiden des Zerissenseins. am

Du junger Bruder, sing laut, wirklich laut,
Die fröhlichen Lieder, irgendwelche Weisen,
Zu wärmen das Abendessen im fernen Land,
Daß sich mein Kopf nicht noch tiefer senkt.

Wer schreit in meinem Herzen jedesmal?
Als ob jemand mitternachts zu Tode gefoltert würde.
Das Leben in Stücke zerrissen, Schmerz bis zur Ohnmacht,
in die Wolken geschickt, heulend purpurrot

Ich spreche zu jedem einzelnen Stern,    
Nacht für Nacht, alle Geschichten im Herzen.
Der fluoreszierende Strand wacht in dämmerndem Licht,
Auch meinen Kopf sehe ich leuchtend hell.

Festland, ich rufe dich, hörst du mich?
Verwirrt schlagend das Grenzenlose, identische  Signale verschickend,
Öffne, öffne für mich den verdichteten Abstand.
Der aufgeschreckte Vogel krächzt Einsamkeit.

Tag! weiße Tage, grell wie inmitten
Des Lichtes, voll erklungen von verrückten Tänzen,
Die Haare von der Traurigkeit rot verbrannt, jedes einzelne
Bricht knackend wie das aufspringende Echo der Jugendzeit.

Oh die Schar der dünnen Bäume am sinkenden Schwemmland,
Sucht trotz der Entwurzelung noch weiterzuleben,
Bemüht frisch zu bleiben bis zum Tag des Verfallens
Oder bis zum Tag, wenn die Ufer wieder ergrünen.

Die Koralle wächst dicht an Ästen und Zweigen .
Auch jene Gemütseregungen verblühen allmählich.
Die Zeit kristallisiert die Steine zu dunkelstillen Gedenksäulen,
Sie nehme ich als Grabstele zur Erinnerung an die Menschheit.


1974

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai

Thắp tạ

vietnamščina | Tô Thùy Yên

Một mai nàng lên núi chan chứa,
Hỏi tìm cho gặp đá tiên tri...
Về sau, đời có ra sao nữa,
Cũng đã đành tâm sẵn một bề.

Ðá, chẳng đá nào lên tiếng với...
Nàng đi thôi đã nát chân hồng,
Nghe con vượn ẩn thân khóc hối
Một lần bỏ lỡ chuyến lìa non.

Một mai nàng vô rừng u ẩn.
Nhặt trái nưa về nhuộm dạ sầu,
Thấy trăm họ cỏ cây chen quấn,
Nương náu nhau mà tội nợ nhau.

Con loan, con phượng bay đâu lạc,
Ðến nỗi nào, sao chẳng gọi bầy?
Nếu như hoa biết chiều nay rụng,
AÂu cũng vui mà nở sáng nay.

Một mai nàng qua cầu cam mặc,
Mưa nắng gì thôi cũng một thì.
Rau hạnh, rau vi từ lúc có,
Chưa từng nguôi biếc bãi Kinh Thi.

Cửa đẩy lầm, vô lường cuộc diện...
Ba ngàn thế giới đã nhà chưa?
Lâu ngày, thân thế rách như gió,
Thấy lại mình như kẻ đáng ngờ.

Một mai nàng đến thành hoa gấm.
Hát một chiều, tiền thưởng ngập chân.
Vui nốn náo trời, thốc tháo biển...
Một lần, thử đổi bỏ chân thân.

Gà nửa khuya gáy xộ trăng muộn.
Ai hồ nghi lộn kiếp bên này?
Con chó khóc tru ngoài địa giới,
Ngờ ngợ người góc biển chân mây.

Một mai nàng ra bãi vô định,
Nhìn sông đổi lòng, nhìn núi chuyển chân.

Mây bay bay như những vẫy biệt...
Nàng đứng cho tàn như một nén nhang

Thắp tạ càn khôn một vô ích,
Thắp tạ nhân quần một luyến thương.
Biển Ðông, đã một ngày xe cát...
Khuất giạt, mơ lai kiếp dã tràng.

1998

© Tô Thùy Yên
from: Selected poems
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Betende Danksagung

nemščina

Eines Morgens steigt sie auf den Berg der Fülle,
Fragt und sucht nach dem Prophetenstein,
Wie immer das Leben später sein wird,
Klaglos fügt sich ihr Herz dem Schicksal.

Lauter Steine, keiner, der die Stimme miterhebt,
Läuft sie immerfort die rosazarten Füße verwundet,
Hört den versteckten Gibbon reuevoll weinen,
Den Abstieg von dem Berg versäumt zu haben.

Eines Morgens geht sie in den Wald der Dunkelheit,
Sammelt die Pfeilwurz, trägt sie heim, das Herz melancholisch zu färben,
Sieht hundert Gras und Baum -Familien einander umschlingend,
Sich unterstützend, verwoben in Leid und Schuld.

Das Phönixweib, der Phönixmann verlieren sich im Flug, wohin,
Wie kann sein, daß sie einander nicht lockend rufen?
Wüßte die Blume, daß sie heute abend verwelkt,
Wäre sie glücklich, heute früh aufzublühen

Eines Tages überquert sie die Brücke des Duldens.
Regen, Sonnenschein, alles hat seine Zeit.
Das Kraut der Seligkeit, das Kraut der Bitterkeit, seit Anbeginn
Unabläßig überziehend grün das Schwemmland des Buches der Lieder

Einmal irrtümlich die Tür aufschiebend, unzählige unberechenbare Ereignisse…
Sind dreitausend Welten schon  ein Daheim?
Dauer zerfetzt  Leib und Schicksal wie der Wind
Wer zurückblickt, kommt sich selbst verdächtig vor!

Eines Morgens kommt sie in die Stadt der Blumen und Brokate,
Singt eine Nacht nur, das Trinkgeld überschwemmt ihre Füße.
Freude wühlt den Himmel auf, verwirbelt das Meer,
Einmal gewagt, ihr wahres körperliches Dasein zu wechseln.
  
Der mitternachts krähende Hahn schreckt aufplusternd den späten Mond.
Wer bezweifelt den Irrtum des diesseitigen Karmas?
Der Hund heult draußen an der Erdgrenze,
Ähnlich dem Menschen am Meeresrand, am Ende des Horizonts.

Eines Tages läuft sie zum Schwemmland der Unbestimmtheit,
Beobachtet wie der Fluß sein Herz wechselt, wie der Berg die Füsse bewegt
Die Wolken fliegen umher wie winkende Abschiede…
Da bleibt sie stehen bis das Räucherstäbchen ausbrennt.

Zündet ein Räucherstäbchen an, betet zu Himmel und Erde, dankt für das Unnütze.
Zündet ein weiteres an, betet zur Menschheit, dankt für Mitgefühl.
Das Ostmeer, schon einmal das Sandschloß gesponnen -
Abgetrieben, träumen vom Wiederkehren des Schicksals von Da-Trang.


1998

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai

Lãng tử

vietnamščina | Tô Thùy Yên

Ngày kia trở lại Ngôi Nhà Lớn,
                                      Lòng những bằng lòng một kiếp chơi.

Bạn có nghe, nay bạn có nghe
Ở bìa rừng bên, gió sửa soạn
Tuần du – cuộc tuần du bất tận.
Bạn có nghe, này bạn có nghe                                                                                             
Giữa tầng trời cao, chim giục giã                                                                                         
Từng giàn như những thủy triều sôi.
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao
Về nơi hẹn nào không định trước.
Bạn có nghe, này bạn có nghe
Vũ trụ miên man chuyển động đều.
Chim đã bay quanh từ vạn cổ,
Gió thật xưa, mây thật già nua.
Nên với một đời, bao biến đổi,
Mà trong vô hạn có chi đâu.
Ly rượu rót mời, xin uống cạn.
Bài ca ta hát đến đâu rồi?
Xin hát nốt – còn đi kẻo muộn...
Cho úp ly – bóng xế đường dài...
Bìm bịp chiều chiều kêu nước lớn.
Ði, đi đâu, chèo chống mỏi mê?
Ðến ngã ba, đành theo một lối,
Tiếc ngẩn không cùng theo lối kia.
Thoáng nhớ có lần ta đọc trộm
Lược sử ta trong bí lục nào,
Văn nghĩa mơ hồ không hiểu trọn,
Thiên thu lóe tắt vệt phù du.
Thuận tay, ta ngắt một cành sậy,
Làm cây sáo thổi cạn hồn sầu
Bay tản khắp vô cùng trống trải,
AÂm thừa tưởng lạc đến muôn sau.

1960

© Tô Thùy Yên
from: Selected Poems
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Der Vagabund

nemščina

Eines Tages kehre ich zurück
Zu jenem großen Haus
Das Herz ruht, zufrieden mit dem spielenden Karma.

Hörst du ´s, hörst du´s
Wie am Rand des nahen Waldes der Wind sich vorbereitet
Auf die Reise, eine unendliche Reise
Hörst du´s, hörst du´s
Wie hoch im Himmel die Vögel sich antreiben
In Scharen wie brausende Fluten
Hörst du´s hörst du´s
Wie auf dem verschwommenen Berggipfel die Wolken aufreizen,
unvorherbestimmt zu welchem Verabredungsort sie ziehen
Hörst du´s, hörst du´s
Wie unaufhörlich das Universum sich regelmäßig bewegt.
Die Vögel kreisen umher in Ewigkeit.
Der Wind und die Wolken so alt.
Daß das Leben voll von Veränderungen ist
Bedeutet nichts im Vergleich zur Unendlichkeit
Das Glas ist eingeschenkt, bitte austrinken!
Wo habe ich das gesungene Lied hingelegt?
Sing bitte zu Ende – muss fortgehen, es wird sonst zu spät  
Das Glas umgekehrt - der Schatten neigt sich schon, der Weg ist lang…
Das Birkhuhn ruft abends das Wasser hoch.
Gehen, wohin gehen, rudern, staken bis zur Erschöpfung?  
Bis zur Dreieckkreuzung, muß die eine Richtung einschlagen
Bedauere im Stillen, nicht auch die andere mitzunhemen.
Flüchtig fällt mir ein, habe einmal verstohlen gelesen
Meine Kurzgeschichte in irgendeinem Geheimbuch
Dessen Sinn und Bedeutung aber nicht ganz verstanden.
In tausenden Herbsten verlöscht die Spur des Vagabunden wie ein Blitz
Beiläufig breche ich ein Stück Schilf
Eine Flöte zu machen die traurige Seele auszublasen
Überall bis zur unendlichen Leere hin
das Echo bleibt und irrt durch weitere tausend Jahre.

1960

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai

Khất giả

vietnamščina | Tô Thùy Yên

Ðến dạ du thần chừng cũng đã ngủ,
Sao khất giả còn đi,
Lê mấy lời thương thảm cổ đại
Vào sâu mãi xóm trong?
Ra bữa xin chưa đủ,
Thân đọa đày thân, phải chịu thôi,
Chỉ mong đồng loại chớ xua đuổi.
Giờ này, thế giới kín khuya khoắt,
Còn cửa nào cho ta gõ đây?
Lũ chó sủa rong theo.
Quả đáng ngờ vực, mọi nhân dạng.
Mấy bữa rồi, gió cứ lầy nhầy trên ngọn cây cao.
Mùa đông năm nay chừng đến sớm.
Trời đất vẫn không chừa bỏ thói ngặt nghèo.
Ðêm qua, lão bạn nằm bên ngủ chết lạnh.
Anh em tri hô xúm tiếp tay.
Rõ vô vọng.
Lửa ngoài thân sao truyền được vào thân
Khi thân chẳng sẵn sàng thứ bắt cháy?
Thời tiết vô lường thay,
Ta phải cố giữ mình luôn ấm áp.
Người lần lượt bỏ nhau đi,
Mộng hãy vì ta nán hủ hỉ.
Gió lại gió thường kỳ
Xúc xiểm âm mưu những biến chuyển.
Thời thế vút qua đi, bỏ rớt lại oan hồn,
Chốn xưa lai vãng khóc dâu biển.
Trăng thâu thiên cổ sáng im lìm...
Có lần cát bụi làm xương máu,
Hoàn kiếp, còn đau nỗi máu xương.

Giặc đại thắng mùa xuân,
Ðất yểm, nhà ma không ở được,
Ta quăng sử tịch, chạy mình không.
May còn chiếc bóng theo làm bạn,
Ðêm đêm vét mộng trải nơi nằm.
Thượng Ðế chiều ta, không hiện hữu,
Mặc ta rộng rãi tùy nghi ta.
Gió vẫn gió ngật ngầy,
Dã dượi hàng cây không ngủ được.
Người già như kẻ đi xa lâu,
Về thăm nhìn ngơ ngác cố thời,
Chừng chẳng nhận ra.
Ta cười khóc bất kỳ, hát điên loạn,
Nhớ đó, quên đây,
Nhìn biết thị phi, không đứng lại,
Ðời bỏ đi rồi, trong đục chi?
Ðôi khi phơi phới như thơ trẻ,
Thường khi nặng chịch như thần linh.
Phải ta đang sống chệch
Một dị bản nào đây của chính ta,
Mãi không vừa chập?
Nghiệp khất giả, tiếng rao thương thảm.
Cõi trăm năm, người nghe bất an.

2005

                                           Trời rạng. Chuyến đi không hoãn được.
                                           Bài thơ tâm phát dẫu chưa xong,
                                           Xin vẫn cài hờ lên cửa tặng.

© Tô Thùy Yên
from: Selected poems
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Der Bettler

nemščina

Sogar der nachts wandernde Gott schläft um diese Zeit schon lang.
Warum noch geht der Bettler,
Schleppt die überlieferten klagenden Worte
Tief ins Dorfinnere hinein?
Zur Mahlzeit noch nicht Almosen genug,
Leib quält den Leib, solches Leiden ist hinzunehmen
Hoffe nur, die Mitmenschen jagen mich nicht weg.
Zu dieser Stunde, da die Welt nächtlich schließt
An welcher Tür noch klopfen?
Die Hunde bellen mir nach für nichts
Wirklich verdächtig, all diese menschlichen Gestalten.
Seit Tagen geht der Wind zäh und klebrig durch die Baumwipfel.
Früh wird der Winter dieses Jahr wohl kommen.
Himmel und Erde halten sich an ihre strenge Regel
Gestern nacht stirbt vor Kälte der nebenan liegende alte Freund.
Die Kumpanen rufen auf zur gemeinsamen Hilfe,
Recht hoffnungslos.
Wie kann das Feuer von außen übertragen werden in einen Körper,
Der nicht bereit ist, Feuer zu fangen?
Unberechenbar das Wetter.
Ich muß achten, den Leib warmzuhalten.
Nach und nach verlassen wir einander.
Traum bitte bleib, mich trösten.
Wind hin Wind her, wie immer
heimtückischVeränderungen vortäuschend.
Die Zeitumstände vergehen im Flug, hinterlassen die Seelen unschuldig Gestorbener
Die kehren zum alten Ort zurück, beklagend die Verwandlung des Maulbeerenfeldes ins Meer.
Der Mond zieht durch taudsend Jahre, leuchtet schweigend…
Daß einst aus Sand und Staub Knochen und Blut entstehen,
Die Inkarnation vollendet, bleibt nur der Knochen- und Blut-Schmerz.

Die Rebellen erringen den Großen Sieg im Frühling.
Der Boden wird mit einem Fluch versiegelt, das Haus vom Geist besetzt, unbewohnbar.
Ich werfe das Stammbuch weg, flüchte mit nacktem Leib.
Zum Glück begleitet vom einzigem Freund, dem Schatten.
Jede Nacht grabe ich mir aus Träumen ein Nachtlager
Der Gott verwöhnt mich durch seine Nichtexistenz  
Läßt mich allein großmütig sein wie ich will,
Wind, immer gleicher Wind, belästigend,
Bringt die ermatteten Baumreihen um den Schlaf.
Alte Menschen, ähnlich jenen langzeitig im Fernland lebenden,
Kehren zum Besuch zurück, betrachten verblüfft die Vergangenheit,
Da ist nichts wiederzuerkennen.
Ich lache, weine, jäh, singe durcheinander wie verrückt,
Erinnere dies, vergesse jenes,
Erkenne, wo rechts, wo links, bleibe nirgends stehen,
Das Leben ist schon lose, wofür noch klar oder trüb sein?
Manchmal bin ich fröhlich leicht wie ein Kind,
Öfters schwer wie ein Heiliger.
Lebe ich schräg ?
Eine Kopie meiner selbst,
Stimmen wir nie ganz überein ?
Bettlerkarma, mitleiderregende Klage,
Keine Ruhe
Im irdischen Leben von hundert Jahren.

2005

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai

Góa phụ

vietnamščina | Tô Thùy Yên

Con chim nhào chết khô trên cửa,
Cửa đóng muôn ngàn năm bặt âm,
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
Sao người khai giải chưa về thăm?

Em chạy tìm anh ngoài cõi gió,
Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn,
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ,
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn.


Em độc thoại lời kinh ánh xanh,
Trăng lu, khuya mỏi, nén nhang tàn.
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa.
Mái ngói nghiêng triền, trái rụng lăn.

Ngọn đèn hư ảo chong linh vị,
Thắp trắng thời gian mái tóc em.
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh.
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm.

Cỏ cây sống chết há ta thán.
Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?
Thảng như con ngựa già vô dụng
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.

1972

© Tô Thùy Yên
from: Selected poems
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Die Witwe

nemščina

Der Vogel fällt trockentot auf die Schwelle
Die Tür schließt sich für tausend Jahre ohne Klang
Wie das verzauberte Amulett das alte Grab versiegelte.
Warum kommt der Zauberbrecher noch nicht mit Gesang?

Ich laufe dich suchend draußen im Reich der Winde,
Das grausame Feuer spielt lachend die Seele erschreckend
Der Schrei zerbricht den Felsen und vibriert in Ewigkeit
Der Sand wirbelt ins Immense verwischt die Grabspur .    

Ich spreche mit mir das Gebet im blauen Licht
Der Mond welkt, die Nacht erschöpft, das Räucherstäbchen glüht aus
Der Hund heult ins Unendliche Erde und Himmel betäubend
Das Ziegeldach neigt sich, die Frucht kugelt herab.

Die unwirkliche Lampe bewacht die Seelentafel
Zündet weiß die Zeit meiner Haare
Das Herz schlägt außerhalb des Leibes zitternd vor Kälte
Die Seele wandert weit wie der sich nächtlich verirrende Glühwurm.

Wer beklagt sich darüber, daß Bäume und Gräser leben und sterben.
Warum weinst du immer über Vergänglichkeit und Entstehung?
Laß es sein wie das alte unnütz gewordene Pferd,
Das vom Herrn verlassen allein draußen unterm Mond steht.

1972

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai

Cánh đồng con ngựa chuyến tàu

vietnamščina | Tô Thùy Yên

Trên cánh đồng hoang thuần một màu,
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
Cánh đồng, a ! cánh đồng sắp hết.
Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
Ngựa ngã lăn, mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.

1956

© Tô Thùy Yên
from: Selected Poems
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Das Feld - das Pferd - der Zug

nemščina

Auf dem leeren Feld all-ein-farbig,
Auf dem leeren Feld weit, unendlich weit,
Der Zug fährt schnell, doch zieht er vorbei, sehr langsam.
Das Pferd verfolgt den Zug, verfolgt den Zug, verfolgt den Zug.
Gräser und Bäume, Gräser und Bäume laufen zurück, kopfschwindlig,  
Hügel schwellen hoch an, dann Täler  tief.
Das Pferd schnauft schwer, schnauft  schwer.
Der Zug fährt schnell, so schnell, so schnell,
Die Sonne geht auf, die Sonne geht unter,
Das Pferd senkt den Kopf, senkt den Kopf, senkt den Kopf,
Das Feld! Ah! Das Feld geht bald zu Ende.
Der Zug fährt schnell, noch schneller, noch  schneller,
Das Pferd fällt um, das Fell geschmeidig feucht wie Gras
Malt auf dem samtenen Hintergrund einen braunen Fleck.


1956

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai

Bụi đời

vietnamščina | Tô Thùy Yên

Xưa có người chợt thiếp giấc chiều,
Chừng chiêm bao điều chi,
Ngay đêm đó, bỏ nhà đi tuyệt tích.

Vách núi gió chà nhẵn,
Nhìn sao khỏi kinh tâm?
Cây gậy trúc bên đường ai bỏ lại?


Chó tru trăng tối.
Bến nước hoang đường,
Tiếng gọi đò huyễn ảo.

Bãi mênh mang láng rợn,
Vong khuất nào kia mãi vẩn vơ,
Ám chướng lời kinh chưa vỡ sáng.

Bước đánh tiếng thăm dò thiên mệnh ẩn hình.
Lửa loạn rừng cuống hoảng.
Chim vút thoát thân bay mù khơi.

Một thời lịch sử bỏ bùa ngươi,
Cho ăn nằm rời rã...
Ma dại thân tàn, quẳng cửa sau.

Manh áo sinh thời mục lủng rỗ,
Mảnh hồn lỗ chỗ nhớ ngoi quên.
Ðồng đất trăm năm đi lạc mãi.

Nơi nào vui quần tụ tối nay?
Chiếu chăn thiên hạ, mộng vô chủ.
Quê nhà đâu nhớ biết, sao hoài hương?

Có bên này, hẳn có bên kia,
Rồi bên kia của bên kia nữa...
Ði đến bao giờ mới nghỉ đi?

Mà thôi, nghĩ lắm chẳng thêm gì.
Trời đất lỗi lầm,
Ngươi đứng ra ngậm ngùi xác chứng.

Ca múa không dụng tâm.
Sống đời không hậu ý.
Chốn đông người như cõi thênh thang.

Nước mắt rồi phai độ mặn chăng?
Măng mai, măng trúc, khổ là vậy.
Nước độc, rừng thiêng, khó ở lâu.

2005

© Tô Thùy Yên
from: Selected poems
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Irdischer Staub

nemščina

Einmal war einer, der für kurze Weile einnickte
Man weiß nicht, was er träumte,
aber in jener Nacht verließ er das Haus,
spurlos verschwunden

Die Felsenwand glatt geschliffen vom Wind,
Wie? aufblickend schaudert einer nicht?
Am Wegrand der Bambusstock, von wem da zurückgelassen?

Der Hund bellt den Mond trüb
Das Wasserufer – legendär
Der Ruf nach dem Fährboot- mystisch

Der Strand immens - ekelglatt  
Welch abwesender Geist verirrt sich hier und da
Verhindert das lichtbringende Sutragebet.  

Der hallende Schritt tastet nach versteckter himmlischer Bestimmung
Das Feuer verwirrt - der Wald erschreckt
Die Vögel retten sich in den unsichbaren Horizont.  

Einmal verzaubert dich die Geschichte mit einem Fluch
Zermürbt wurde das Dasein
Der Geist stumpf, der Leib zerfetzt, weggeworfen zur Hintertür.

Pochennarbig verfault das Kleid zu Lebzeiten  
In durchlöcherter Seele steigen Erinnerungen empor aus Vergeßlichkeit  
Hundert Jahre verlaufen sich im irdischen Feld.

Wo versammelt man sich heute nacht zum Vergnügen?
Gemeinsame Decke der Menschheit, herrenloser Traum.
Die Heimat unbekannt, warum doch noch Heimweh?

Existiert die eine Seite, gibt es sicher die andere
Dann die andere der anderen…
Gehen bis wann? Zum nicht mehr weitergehen?

Schon gut, zu viel denken nützt nichts
Himmel und Erde machen Fehler
Der Mensch bestätigt es betrübt.

Singen und Tanzen ohne Absicht
Dasein ohne Hintergedanken
Mitten in der Masse sein wie im Freien.

Werden die Tränen einmal nicht mehr so salzig schmecken?
Schilfsproß – Bambussproß, so leidvoll das Leben
Giftiges Wasser, geheimnisvoller Hain! Schwer dort lange zubleiben.

2005

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai

Ði về

vietnamščina | Tô Thùy Yên

Khuya rồi, nước đã đầy trăng,
                Ði về suốt bãi sông Hằng, gặp ai?
                     Lạnh trời, đâu lửa hơ tay?
                Ðêm còn, cứ bãi sông này lại đi.
                   Thấy gì chăng, chẳng thấy gì.
               Nước rào, trăng rạt, ta thì mỏi mê...
                   Chầy khuya, nước ủ, trăng ê,
                Uổng công, bãi ấy đi về một ta.
                     Mãi rồi, trời cũng sáng ra,
                Phần trăng, trăng lặn, phần ta, ta về.

                     Vẫn sông, vẫn bãi bốn bề,
                   Sang đêm, ai nữa đi về gặp ai?

                                                 1987

© Tô Thùy Yên
from: Selected poems
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Hin und zurück*

nemščina

Späte Nacht,
schon ist die Flut voll des Mondes.
Hin und zurück,
die ganze Zeit gehend
den Fluß der Ewigkeit
entlang
wen zu treffen?
Der Himmel friert. Wo ist Feuer
darüber die Hand zu halten?
Die Nacht währt,
vom selbenUfer aus
wird wieder gegangen.
Was ist zu sehen,
nein, nichts zu sehen.
Nur das Wasser rauscht
der Mond rührt
und ich bin zermürbt von Müdigkeit.
Der nächtliche Reisstampfer tönt,
das Wasser sinkt,
der Mond welkt.
Die Mühe umsonst,
an jenem Ufer
ging hin und zurück
ich all-ein
Endlich dann wird  der Himmel hell.
Jener Mond, der verblaßt,
Dieser, ich, der zurückkehrt.
Es bleibt der Fluß, das Ufer, alle vier Richtungen.
Ob kommende Nacht
wieder wer geht
hin und zurück
um wen zu treffen?  

*Das Gedicht wird verfaßt, in lyrisch populärster Form der traditionellen vietnamesischen
Dichtung: die Silben- Regel für den Versenrhythmus. Nach dieser Regel reimt sich die letzte
Silbe des ersten 6- Silbenverses mit der 6. Silbe des nachfolgenden 8- SilbenVerses, dessen
achte, letzte Silbe sich wiederum mit der letzten 6. Silbe des kommenden Verses reimt und so
weiter. Der Reim muß strikt eingehalten werden, wodurch das Können des Verfassers sich
auszeichnet. Es ist zu betonen, daß die vietnamesische Sprache einsilbig ist.

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai

Qua sông

vietnamščina | Tô Thùy Yên

Ðò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện.
Mưa lâu, trời mốc, buồn hôi xưa.
Con đường đáo nhậm xa như nhớ.
Chiều mập mờ xiêu lạc dáng cò.
Quán chật xanh lên rừng lính ướt,
Mặt bơ phờ dính gió bao la.
Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét,
Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa.
Vang lên những địa danh huyền hoặc,
Mỗi địa danh nồng một xót xa.
Giặc đánh lớn – mùa mưa đã tới.
Mùa mưa như một trận mưa liền.
Châu thổ mang mang trời nước sát.
Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên.
Tiếp tế khó – đôi lần phải lục
Trên người bạn gục đạn mươi viên.
Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên.
Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh.
Sông cái nước men bờ sóng sánh.
Cồn xa cây vướng sáng mơ màng.
Aùo quan phong quốc kỳ anh liệt,
Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang.
Quê xa không tiện đường đưa tiễn.
Nghĩa tận sơ sài, đám lạnh tanh.
Thêm một chút gì như hối hả,
Người thân chưa khóc ráo thâm tình.
Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền.
Xuống đò, đời đã bỏ quên...
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.

1964

© Tô Thùy Yên
from: Selected poems
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Den Fluß überqueren

nemščina

Das Boot verstopft von der Nachschubstruppe.
Der Regen zäh, der Himmel verschimmelt, traurig verfault.
Der Weg zur Dienstwierderaufnahme weit wie die Sehnsucht.
In der Dämmerung des Abends irrt der Schatten des fliegenden Storches vom Weg ab.
Das enge Lokal grün erhellt von waldfarbiger Kleidung durchnäßter Soldaten,
Ihr Gesicht vergeistigt von wehenden Spuren immensen Windes.
Die Feuchtigkeit vernebelte die Luft, es roch nach verbranntem Pulver.
Zufällige kleine Geschichten entfachten winzige Wärme für die Regenbäume.
Die mystischen Ortsnamen hallten laut von Mund zu Mund.
Jede Ortsname roch hitzig nach  Bitterkeit.
Die Feinde schlugen heftig – die Regenzeit kam.
Eine Regenzeit wie Regen ohne Ende.
Dorf und Land standen grenzenlos im Wasserschleier.
Die Seele schimmelt da, in welch unbenennbarer Einsamkeit!
Der Nachschub zögert – einige Male mußte ich durchsuchen
Auf dem gefallenen Leib des Freundes etwa zehn Patronen.
Die Evakuierung stockte – Würmer und Maden wimmelten
In den Wunden eines klaglosen Freundes.
Die Leichen der seit Tagen verstorbenen Soldaten wurden nicht weggeräumt.
Geschwollene Leiber, zerfetzte Gesichter, die Bächer rochen nach Blut.
Der Hauptfluß berührt das Ufer mit sanften Wogen.
In den Bäumen der fernen Insel Licht wie im Traum
Zur Beerdigung soll die Nationalflagge die Heldentat würdigen.
Für Tausende Herbste versank der Trauerzug im Wasser
Die Heimat lag so fern, daß niemand zum Abschienehmen kam.
Die letzte Ehre war einfach, die Trauerfeier kalt!
Mich überfiel etwas wie Eile.
Die Tränen für den Freund noch ungeweint.
Betroffen sah ich mich selbst
In jenes End-Reich taumeln, dunkel hallte der Klang im Nichts
Stieg ins  Boot, ließ das Leben zurück
Ein Fluß, strömendes Wasser in leuchtender Augen.

1964

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai