Michael Sollorz 
Translator

on Lyrikline: 10 poems translated

from: vietnamita to: alemán

Original

Translation

ĂN HẢI CẢNG

vietnamita | Nguyễn Hữu Hồng Minh

Tôi đã ăn một hải cảng ba tiếng đồng hồ
Hải cảng đó hai mươi năm xa, quay về
Không nghĩ mình có thể ăn nhiều thế!

Ăn những âm thanh nhỏ xíu như tiếng gió
Tiếng những con hà biển hát trên rêu trên sóng
Ðến con hải âu quen
                         hai mươi năm bay không mỏi trong kí ức
Cánh chim hay cánh thời gian
Những chấm phá đời tôi cao vời

Ăn hai trái vú em săn chắc áp mặt như hai quả chuông
Những tiếng chuông vỡ ngọc tuổi thơ
Màu cà- rem hai mươi năm không đổi
Ngày nào tôi bay
Hải cảng phong kín hai mươi năm
Dựng huy hoàng chiều đứng thẳng

Tôi muốn ăn hết những bánh lái
Cuộn đời tôi đi đến khúc quanh nào?
Những chiếc mỏ neo
Thời gian chặt hết từng bến đậu
Lưu lạc đời về đây trong dây thong
Buộc hờ trên bến cô đơn hơi thở ẩm ướt hoang vu

Hải cảng mắt buồn đen khuya
Áo nón, giấy pluya
Bia, féc-mơ-tuya...
                           Tình gái
Ôi môi đời tìm chơi
Viết mãi trên sóng xanh giấy nháp
Làm sao tin được cái chết đóng sẵn như thân tàu?
Ồ ạt cuốn về đâu
Cột buồm huy hoàng xé gió
Réo gọi ngày xanh
Tìm gì trong mong manh, sóng vỡ tan tành
Chảy mãi thôi, ấm dòng lệ

Tôi đã ăn hết một hải cảng ba tiếng đồng hồ
Có thể chết vì bội thực – Nhưng không sao
Tôi đang ăn cái đầu tôi


Trên cảng kia, gã thủy du đã quay về sau hai mươi năm
Y lang bang không đầu
Và cũng không tàu
Ðang bay lên những linh hồn bánh lái...

                                           Cảng Tiên Sa, Ðà Nẵng 2000-2001.

© Nguyễn Hữu Hồng Minh
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Hafen essen

alemán

Ich aß einen Hafen in drei Stunden
Der war für zwanzig Jahre weg, kam zurück
Erstaunlich, soviel verdrücken zu können!

Aß das leise Wimmern des Windes
Die Gesänge der Schiffswürmer, Algen, Wellen
Bis zu der üblichen Möwe
zwanzig Jahre kreist sie unermüdlich in der Erinnerung
Vogelflügel oder die Flügel der Zeit
Meinen dollen Lebensentwurf

Aß deine beiden festen Brüste, zusammengedrückt wie zwei Glocken
Glockenklänge, die Perle der Kindheit zerschellt
Die Farbe der Eiscreme, zwanzig Jahre gleich
Eines Tages hob ich ab
Der Hafen, für zwanzig Jahre dicht gemacht
Der glänzende Nachmittag steht senkrecht auf

Sämtliche Lenkräder will ich fressen!
Bis zu welcher Kurve bringt ’s mein Leben?
Die Anker
Die Zeit hat alle Anlegestellen gekappt
Sie treiben im Leben an schlaffem Seil
Achtlos festgemacht an verwaisten Ufern

Hafen, traurige schwarze Nachtaugen
Hemd, Hut, Kohlepapier
Reißverschluss, Bier ...
Frauenliebe
Ah, die Lippen des Lebens wollen spielen
Das Schmierpapier blauer Wellen bekritzeln
Der Tod wie ein Schiffsrumpf – wie können wir an ihn glauben?
Ungestüm zieht der prächtige Segelmast dahin
Schneidet den Wind
Ruft nach den jungen Tagen
Sucht im Filigranen, in der krachend brechenden Woge
Warmer Tränenfluss

Ich aß einen Hafen in drei Stunden
Könnte platzen – mach ich aber nicht
Ich ess’  gerade meinen Kopf

Zu jenem Hafen kehrt der Seereisende nach zwanzig Jahren zurück
Streunt herum ohne Kopf
Und ohne Schiff
Hebt ab wie die Lenkradseelen ...

                                                    Cang Tien Sa, Da Nang, 2000-2001

Aus dem Vietnamesischen übertragen von Ho Pham Huy Don und Michael Sollorz

QUÁN CÀFÉ 47

vietnamita | Nguyễn Hữu Hồng Minh

Ðến soãi dài mỏi mệt
Mơ mơ rung đùi
Một khoảng khắc thôi quên phiền muộn
Ngồi quán như ngồi trên cây cầu bắc qua đời sống
Sức tàn lực kiệt chuốc hơi mà đi

Không tới đâu
                           cơn ói mửa linh hồn lạnh xám
Không tới đâu
                           con ruồi trên mặt thể chế
Viết như câm, hả hơi như nói như điên một mình
Như bốn bề tù ngục, cần hơi khà ra để thấy sự sống
Viết viết viết như đâm thủng mặt giấy
Ðọc cho nhau nghe như súng nổ, như thể đây là lần cuối cùng
Lần cuối bão phá, lũ quét
Kinh hồn đêm tối dựng buổi sáng yếu ớt hẻm vắng café lạnh

Rồi không tới đâu ha hả cười
Bão tố ghìm trong họng
Chữ khảm trong đầu như đá dội ong ong trong đêm
Thơ thổ huyết

Người đi bỏ bóng lại
Tìm mãi chi chân trời?

                                                                  Phác thảo 12.7.2005.

© Nguyễn Hữu Hồng Minh
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Café 47

alemán

Angekommen, müde hingefläzt
Dösend mit dem Schenkel wippen
Sorglos für den Moment
In der Kneipe hocken wie auf einer Brücke über’m Leben
Ausgebrannt Luft holen

Nirgends angekommen
Kotzkrämpfe, die Seele kalt und grau
Nirgends angekommen
die Fliege auf dem Gesicht des Systems

Schreiben wie stumm, wie das Herz ausschütten, wie verrückt werden
Wie eingekerkert, braucht’s einen Atemhauch, um Leben zu sehen
Schreiben schreiben schreiben, als durchbohrte man das Papier
Einander vorlesen wie Gewehrsalven, als wär’s das letzte Mal
Das letzte Mal vernichtender Sturm, fegende Flut
Nächtlicher Seele Gebet errichtet den kraftlosen Morgen, verlassene Gasse, kaltes Café

Schließlich nirgends angekommen laut auflachen
Gewitter quer im Hals
Worte im Kopf eingepasst wie dröhnendes Pflaster bei Nacht
Das Gedicht spuckt Blut

Der Mensch tritt aus seinem Schatten
Wozu noch den Horizont suchen?

                                             Entwurf, 12. 07. 2005

Aus dem Vietnamesischen übertragen von Ho Pham Huy Don und Michael Sollorz

TRONG QUÁN

vietnamita | Nguyễn Hữu Hồng Minh

Một Sàigòn nhỏ, Sàigòn quán
Mưa rào rào hạt to như rây
Ðổ xuống từ cao ốc chém toạc mảnh trời
Ngồi góc nào cũng thấy trời rách

Những câu chuyện đi hết đời vẫn câu chuyện ấy
Những gương mặt yêu ghét nhòa lẫn
Những dự định ào mưa, nhen tắt bập bùng
Những gương mặt lưỡi cày
                                          xới đêm,  
                                                đổ bóng lên tường, lở quán
Những câu thơ giật bom khủng bố chờ viết ra

Một hôm nhận ra đời ta rất Sàigòn
Trong vực xoáy khổng lồ thiếu giọt hi vọng
Sàigòn hiện diện, Sàigòn lãng quên
Từng dự định hối thúc thay đổi
Như quán nhỏ chờ cơn mưa lớn
Tan chảy và bừng sáng từng hạt người trên đại lộ

Chờ cuốn tất cả đi không gì còn  lại
Rác rưởi vào cống rãnh,
                            cơn điên vào hồn,
                                                    u mê bão táp vào hầm sâu chặt ngọn
Dự định bom nổ chậm lấp lánh khởi trên trang viết
Chờ một câu thơ đẫm mưa sưởi kí ức khô héo của ta...

                                                                               
                                                                              Sàigòn, 16.7.2005.

© Nguyễn Hữu Hồng Minh
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

In der Kneipe

alemán

Saigon in klein, Saigoner Kneipe
Strömender Regen
Sturzfluten zerfetzen den Himmel
Aus jeder Ecke gut zu sehen

Geschichten, bis zum Schluss dieselben
Gesichter, geliebte, gehasste, verschwimmen
Große Pläne, entflammt und im Regen flackernd verzischt
Gesichter wie Pflugscharen
durchpflügen die Nacht
werfen Schatten auf die Wand, die Kneipe kippt
Die Terrorbombenverse warten, dass sie einer schreibt

Eines Tages begreifen: dein Leben ist sehr Saigon
Kein Tropfen Hoffnung in dem Sog
Saigon total? Vergiss Saigon
Jeder große Entwurf fiebert nach Veränderung
Wie die kleine Kneipe den Wolkenbruch erwartet
Leuchten draußen die Schemen der Menschen, zerfließen

Warten, dass alles spurlos wegrauscht
Dreck in Gullys
Wahnsinn in die Seele
Dumpfe Gewitter in sichere Keller
Das Unternehmen Zeitbombe tickt auf dem leeren Blatt
Warten auf einen Vers, vom Regen durchweicht ...

                                              Saigon, 16. 7. 2005

Aus dem Vietnamesischen übertragen von Ho Pham Huy Don und Michael Sollorz

TREO DỌC

vietnamita | Nguyễn Hữu Hồng Minh

Tôi đi ra biển xanh thấy trên nước treo dọc những con cá
Tôi đi vào thành phố thấy quảng trường treo dọc những cái đầu
Tôi đi xuyên nhà ga thấy treo dọc những chuyến tàu
Tôi đi thẳng tương lai thấy treo dọc những mặt nạ

Tôi đi về quá khứ thấy treo dọc những xác chết
Tôi đi tới nhà hát thấy treo dọc những hình nộm
Tôi đi ngược truyền thống thấy treo dọc những quảng cáo
Tôi đi cùng hiện đại thấy treo dọc những về nguồn

Và tôi biết
Tôi đang sống thở với Việt Nam treo dọc những đức tin

Rồi một hôm tôi nhận ra đầu tôi treo trên những dòng chữ viết
Tôi đâu phải người câm sao nói như người điếc
Tôi đâu phải biển xanh để treo mớm lên những con cá?


Và chữ của tôi tiếp tục bị treo lên, treo lên
Tôi gọi chúng chẳng thèm ngoái đầu
Chúng bưng bít mưng mủ mù lòa
Chúng như đã nhiễm phải bệnh lậu

                                                                            Hà Nội, 5.2001.

© Nguyễn Hữu Hồng Minh
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Längs gehängt

alemán

Ich geh zum blauen Meer, seh überm Wasser die längs gehängten Fische
Ich geh in die Stadt, seh auf dem Platz die längs gehängten Köpfe
Ich geh durch den Bahnhof, seh die längs gehängten Züge
Ich geh schnurstracks in die Zukunft, seh die längs gehängten Masken

Ich geh zurück in die Vergangenheit, seh die längs gehängten Toten
Ich geh ins Theater, seh die längs gehängten Marionetten
Ich geh gegen die Tradition, seh die längs gehängten Reklamen
Ich geh mit der Moderne, seh die Rückkehr zum Ursprung, längs gehängt

Und ich weiß
Ich lebe und atme, eins mit Vietnam und dem längs gehängten Glauben

Eines Tages erkenne ich meinen Kopf, über den Zeilen hängend
Ich bin nicht stumm – warum spreche ich wie ein Tauber
Ich bin nicht das blaue Meer, das probehalber paar Köder hängt

Und meine Wörter werden gehängt, wieder und wieder gehängt
Drehn sich nicht mal um, wenn ich sie rufe
Machen dicht, vereitern, erblinden
Wie vom Tripper befallen


        Hanoi, 5. 2001

Aus dem Vietnamesischen übertragen von Ho Pham Huy Don und Michael Sollorz

NHÀ BUÔN VÀ NHÀ THƠ

vietnamita | Nguyễn Hữu Hồng Minh

Tôi gặp ông trưa nay lạng lách trên phố
Ông đi như một tên buôn người
Cả đời ông không có thứ gì không buôn
Dân tộc, chính trị, văn hóa

Ông buôn nước bọt mơ làm đại sứ Nghệ thuật
Lời lẽ đầy máu cá
Kẻ còn chút lương tri lợm giọng

Ông buôn thời gian như đầu cơ vé số
Người trúng độc đắc là ông
Khi bao kẻ khác đã chết

Ông chui vào Văn Miếu
Cắt máu mài đá
Lén đục tên mình

Ông buôn danh tiếng
Như bí mật xác ướp trong mộ cổ
Hồn ma dựng trên giấy thơm

Giờ ông bắn đi như mũi tên lạng lách phố xá Sàigòn
Tiếp tục ghim vào kẻ xấu số nào sứ mệnh máu cá
Tôi hoảng hốt tránh ông
                              trước khi đạn ngôn từ
                                                          nổ văng miểng

Mẹ kiếp tốt nhất là nên gửi ông cho thơ
Ðể thơ buôn ông
                
                                                                        Sài gòn, 30.4.2005.

© Nguyễn Hữu Hồng Minh
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Händler und Poet

alemán

Ich traf ihn heut  Mittag auf der Strasse
Er geht wie ein Menschenhändler
Zeitlebens hat er noch alles verhökert
Volk, Politik, Kultur

Er handelt mit Speichel, träumt sich als Botschafter der Kunst
Worte, mit Fischblut durchweicht
Wer noch Gewissen hat, den schüttelts

Er handelt mit der Zeit, als wuchere er mit Lotto-Losen
Ist selbst der Hauptgewinner
während andre krepiern

Er schleicht in den Tempel der Literatur
Wetzt bis aufs Blut die Steine blank
Und meißelt heimlich seinen Namen ein

Er bietet Ruhm und Ehre feil
Wie die Geheimnisse der Mumien in alten Gräbern
Gespenster auf erlesenem Papier

Jetzt saust er los wie ein Pfeil, schlängelt sich durch die Strassen Saigons
Trifft in seiner klebrigen Mission wieder so einen Pechvogel  
Ich weiche ihm panisch aus
bevor das Wortgeschoss
splitternd explodiert

Verdammt, am besten überließe man ihn der Poesie
Soll die doch mit ihm handeln


                                                                    Saigon, 30.04.2005

Aus dem Vietnamesischen übertragen von Ho Pham Huy Don und Michael Sollorz

MUỐI VÀ ÐÁ

vietnamita | Nguyễn Hữu Hồng Minh

Gửi nhạc sĩ  Dương Thụ

Kí ức như thuốc súng trong tâm hồn chúng ta
Những năm 30 có thể nổ tung bất cứ lúc nào
Khi một que mồi bật sáng
30 năm, 20 năm tươi ròng trở lại
Không hề thanh thản nhưng sáng rõ

Có thể ở những gút mắc của cuộn thừng
                                      đời sống tôi chưa từng gặp anh
Nhưng trong  boong-ke số phận
                                     chúng ta là hai con cá ướp muối
Anh bị lèn chặt ở đâu đó trên tôi,
                                           cái đuôi của anh vẫn cố vẫy vẫy
                                                                  ra ngoài khoảng không
Giữa hai chúng ta là muối
Muối, ôi muối và đá
0 độ C
20 năm, 30 và 50 năm
Chúng ta toả trên vân muối những hương thơm

Hương của muối
Vân của đá lạnh
Nhiều khi trong cái lạnh chúng ta cần muối
Chúng ta thiếu nhiệt cho tác phẩm
Ðôi lúc những gì ném ra như đá lạnh giữa đời
Muối tâm hồn hoen rỉ
Một đời sống khác bị bỏ đói
Chờ chạm vào phút bình thường lên hương
              
                                                         Café HightlandsTôn Ðức Thắng,
                                                                          tháng 5.2005.

© Nguyễn Hữu Hồng Minh
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Salz und Eis

alemán

Für den Komponisten Duong Thu

Erinnerung wie Schießpulver in unseren Seelen
Die 30erjahre können jeden Moment explodieren
Wenn ein Zünder losgeht
30 Jahre, 20 Jahre werden wieder frisch und rein
Nicht unbeschwert, aber leuchtend klar

An den Knoten des Lebensseils
bin ich dir vielleicht nie begegnet
Aber im Bunker des Schicksals
sind wir zwei gesalzne Fische
Du bist irgendwo über mir eingequetscht
deine Flosse schlägt verzweifelt
ins Leere draußen

Zwischen uns ist Salz
Salz, oh Salz und Eis
0 Grad C
20 Jahre, 30 und 50 Jahre
Auf den Rissen des Eises verbreitet sich unser Duft

Duft des Salzes
Risse im klirrenden Eis
Oft brauchen wir in der Kälte Salz
Fehlt uns die Glut für das Werk
Hingestreut wie Eis
Salzen wir die rostende Seele
Lassen ein anderes Leben verhungern
Erwarten die Berührung des alltäglichen Moments
Verbreiten unsern Duft

Café Highlands, Ton Duc Thang, Mai 2005

Aus dem Vietnamesischen übertragen von Ho Pham Huy Don und Michael Sollorz

DỰ CẢM CÂY LIỄU

vietnamita | Nguyễn Hữu Hồng Minh

Tặng nhà văn Trần Tiễn Cao Ðăng

Trong bão táp tháng mười
                     tôi lắng nghe dự cảm của cây liễu
Bầu trời vòm cung, thân cây là mũi cung
Sự hoang bạo của gió làm những mũi tên run lên
Như chuẩn bị bắn vào nỗi khát vọng chưa rõ mặt


Qua bình yên nắng tháng hai tôi không còn nghe chúng nói
Nhưng dưới thảm lá để lộ một cuộc sống khó nhọc, bền bỉ
Tiếng rễ quẫy mạnh da thịt đất đai
Rách toạc mãnh liệt bí huyền
Khởi nguồn dự cảm trong xanh
                                   Chờ cơn bão tới...

© Nguyễn Hữu Hồng Minh
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Vorahnung der Trauerweide

alemán

Dem Literaten Tran Tien Cao Dang gewidmet

Im Oktobersturm
lausche ich auf die Vorahnung der Trauerweide
Der Himmel ein Bogen, der Baumstamm ein Pfeil
Zitternd unter der Gewalt des Windes
Schussbereit, die Sehnsucht noch ohne Gesicht

Im Frieden der Februarsonne höre ich sie nicht mehr sprechen
Doch unterm Laubteppich regt sich schweres, zähes Leben
Das Geräusch der zuckenden Wurzel, Fleisch und Haut der Erde
Platzen mit magischer Kraft
Ursprung der klaren, grünen Vorahnung
Warten auf den Sturm ...

Aus dem Vietnamesischen übertragen von Ho Pham Huy Don und Michael Sollorz

CÚI XUỐNG, HỠI EM!

vietnamita | Nguyễn Hữu Hồng Minh

Cúi xuống hỡi em!
Nơi những phận người nhỏ nhoi không thể bay lên bằng đôi cánh
Nhưng tử đôi mắt niềm vui cháy không nguôi
Nơi những cánh hoa li ti khuất mình vào bình lặng
Cuộc sống đứng lên thật khó khăn biết bao

Cũng có lúc tôi mệt mỏi đổ vỡ thầm lặng
Tôi kinh sợ sự vô hại này
Những ước mong ngày nào cúi xuống thật thấp
Dưới vòm trời trĩu nặng tôi không mang nổi thêm một ước mơ
Tôi càng gầy gò câu thơ càng sắc nhọn
Tôi thấy trong mắt nhiều người sự câm lặng
Họ trôi trên bến bờ lang thang như chưa phải họ
Quả địa cầu dịu dàng
Như cánh hoa nở thắm không biết mình đẹp
Bông hoa câm
Cứ thế, cuộc đời lướt trôi
Những gương mặt tối vẫn lóe sáng thầm
Niềm ẩn sâu bùng kín
Như sắc hương của một đóa mơ ước

Cúi xuống hỡi em
Nghe tiếng hát của loài hoa không tuổi tên
Như tôi cúi xuống câu thơ
Ðã gặp nỗi hổ nhục chính mình khi từng ngợi ca
Những vẻ đẹp hoang đàng và rỉ sét

                                                                             11.2001.

© Nguyễn Hữu Hồng Minh
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Verneige dich!

alemán

Verneige dich!
Dort, wo dem kleinen Menschenschicksal keine Flügel wachsen
Dennoch brennt in den Augen unerbittliche Freude
Dort, wo sich winzige Blumen im Stillen verbergen
Wie mühsam richtet sich das Leben auf

Manchmal breche ich erschöpft zusammen
Ich fürchte diese Ungefährlichkeit
Die Wünsche von einst beugen sich tief
Unter der Last des Himmels kann ich keinen Traum mehr tragen
Je dünner ich werde, desto spitzer der Vers
In den Augen vieler Menschen erblicke ich das Schweigen
Sie treiben an den Ufern vorbei, sich selber fremd
Demütiger Erdball
Wie eine Blüte, die aufgeht und nichts von ihrer Schönheit weiß
Stumme Blüten
So vergeht das Leben
Noch immer schimmern dunkle Gesichter im Versteck
Verhüllt sich das Verborgene
Wie einer Traumblüte Schönheit und Duft

Verneige dich
Höre den Gesang der namenlosen Blumen
Wie ich mich über die Verse neige
Beschämt vom Loblied
Auf die Schönheit, rostig und zügellos

                                                                            11.2001

Aus dem Vietnamesischen übertragen von Ho Pham Huy Don und Michael Sollorz

BÀI CA MÁU

vietnamita | Nguyễn Hữu Hồng Minh

Bóng tối dựng trong thân xác
Máu hát biển đen
Cơn thuỷ lưu không ngơi nghỉ

Vỗ quanh tim đầu cầu
Chuyển đi khắp năm châu
Những đốt xương đan giải
Những trục chính đại lộ

Mặt trăng là tim máu
Dưới hồng cầu mặt trời
Ðơn lẻ tiếng vỗ xác

Những ánh thơ ngủ yên
Trong bóng tối của máu
Một ngày cất tiếng
Công thức riêng không pha trộn

Dưới bí mật của máu
Những câu thơ ẩn tàng
Một ngày cất tiếng
Công thức riêng không pha trộn

© Nguyễn Hữu Hồng Minh
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Lied des Blutes

alemán

Dunkelheit erfüllt den Körper
Das Blut besingt das schwarze Meer
Ruhelose Strömung

Pulst um das Herz des Brückenkopfs
Überflutet die fünf Kontinente
Verstreute Knochenteile
Die Hauptachsen der Alleen

Das Antlitz des Mondes ist das Herz
Unter dem glühenden Sonnengesicht
Einsames Pochen

Friedlich schlafen die Verse
Im Blutschatten
Erheben dereinst ihre Stimmen
Einzigartig, unverdorben

Unter dem Geheimnis des Blutes
Verbergen sich die Verse
Erheben dereinst ihre Stimmen
Einzigartig, unverdorben

Aus dem Vietnamesischen übertragen von Ho Pham Huy Don und Michael Sollorz

ÐẶC THÙ

vietnamita | Nguyễn Hữu Hồng Minh

Không dễ chịu chút nào
Viết
Ðầu đặc khô như ngói
Chữ thoái hoá không tín hiệu trên vùng não trạng
Trĩu nặng những ngón tay mất cảm giác gõ bàn phím
Lần mò cướp một câu thơ từ chiếc túi hư vô không hình dạng
Năm nay tôi 33 tuổi
27 năm làm nghề cướp chữ
Nói về chữ tôi là tên cướp có đẳng cắp
Nhưng cũng về chữ, hơn 25 năm
                                  tôi bị cầm tù giữa cây cầu trừu tượng
Ðêm đêm tôi lắng nghe sóng
                                        và dõi theo ánh hải đăng
                                                                    tìm bờ bến cho bài thơ của mình

Không dễ chịu chút nào
Viết
Quá ít dưỡng khí cho bài thơ thở
Những vùng ngôn ngữ tôi có được
Không đủ tái tạo không gian một bài thơ
Ðời sống dẹp lại như bao diêm
Những đốm lửa cô đặc chờ kíp nổ
Ứ đọng như nước chảy vào khoảng trũng
Trôi lụt, xói lở âm thầm
Xác thân mòn, hồn vô định
Phơi kí ức, ngọn cờ trắng đầu hàng
Le lói dự cảm phiếu bầu không hợp lệ

Vẽ những dấu nhạt ít thông điệp lên đời mình
Khoanh tròn
Bên lề ngày tháng ghi chú, gạch xoá, xé bỏ
Không nở hoa
Những bài thơ, những bài thơ, những bài thơ

                                                                            Sàigòn, 7.2005

© Nguyễn Hữu Hồng Minh
Audio production: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Charakteristik

alemán

Absolut unbequem
Schreiben
Der Kopf ist fest und trocken wie Ziegel
Wortkrüppel ohne Signal auf dem Radarschirm des Hirns
Schwere Finger hacken fühllos auf die Tastatur
Klauben eine Zeile aus der löchrigen Tasche des Nichts
Dies Jahr bin ich 33
27 Jahre Worträuber von Beruf
Was Wörter betrifft, ein Räuber von Format
Was sie außerdem betrifft, steh ich seit 25 Jahren
gefangen auf der Mitte der Brücke
Höre Nacht für Nacht die Wellen brechen
und folge dem Lichtstrahl des Leuchtturms
auf der Suche nach einem Ufer für mein Gedicht

Absolut unbequem
Schreiben
Zu wenig Sauerstoff zum Atmen für das Gedicht
Die Landschaft meiner Sprache ist zu eng
In ihr ein Gedicht zu errichten
Das Leben schrumpft zur Streichholzschachtel
Blakendes Flämmchen, das auf die Sprengkapsel wartet
Brakes Wasser in der Pfütze
Überschwemmt, zersetzt im Schweigen
Verschlissener Leib, formlose Seele
Erinnerung öffnen, die weiße Fahne der Kapitulation
Die Ahnung schimmert durch, dass deine Stimme nicht zählt

Blasse Zeichen ohne Botschaft malen
Einkreisen
Am Rand das Datum notieren, durchstreichen, zerreißen
Keine Blüten
Die Gedichte, die Gedichte, die Gedichte

                                                                 Saigon, 7.2005

Aus dem Vietnamesischen übertragen von Ho Pham Huy Don und Michael Sollorz