Tô Thùy Yên

vietnamita

Kim Lan Thai

alemán

Góa phụ

Con chim nhào chết khô trên cửa,
Cửa đóng muôn ngàn năm bặt âm,
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
Sao người khai giải chưa về thăm?

Em chạy tìm anh ngoài cõi gió,
Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn,
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ,
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn.


Em độc thoại lời kinh ánh xanh,
Trăng lu, khuya mỏi, nén nhang tàn.
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa.
Mái ngói nghiêng triền, trái rụng lăn.

Ngọn đèn hư ảo chong linh vị,
Thắp trắng thời gian mái tóc em.
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh.
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm.

Cỏ cây sống chết há ta thán.
Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?
Thảng như con ngựa già vô dụng
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.

1972

© Tô Thùy Yên
De: Selected poems
Producción de Audio: 2005, M.Mechner / Literaturwerkstatt Berlin

Die Witwe

Der Vogel fällt trockentot auf die Schwelle
Die Tür schließt sich für tausend Jahre ohne Klang
Wie das verzauberte Amulett das alte Grab versiegelte.
Warum kommt der Zauberbrecher noch nicht mit Gesang?

Ich laufe dich suchend draußen im Reich der Winde,
Das grausame Feuer spielt lachend die Seele erschreckend
Der Schrei zerbricht den Felsen und vibriert in Ewigkeit
Der Sand wirbelt ins Immense verwischt die Grabspur .    

Ich spreche mit mir das Gebet im blauen Licht
Der Mond welkt, die Nacht erschöpft, das Räucherstäbchen glüht aus
Der Hund heult ins Unendliche Erde und Himmel betäubend
Das Ziegeldach neigt sich, die Frucht kugelt herab.

Die unwirkliche Lampe bewacht die Seelentafel
Zündet weiß die Zeit meiner Haare
Das Herz schlägt außerhalb des Leibes zitternd vor Kälte
Die Seele wandert weit wie der sich nächtlich verirrende Glühwurm.

Wer beklagt sich darüber, daß Bäume und Gräser leben und sterben.
Warum weinst du immer über Vergänglichkeit und Entstehung?
Laß es sein wie das alte unnütz gewordene Pferd,
Das vom Herrn verlassen allein draußen unterm Mond steht.

1972

Ins Deutsche übertragen von Kim Lan Thai